Hè về cuộc sống vui tươi
Cá tung tăng lội, mây trôi lững lờ
Bạc tiền như nước chảy vô
Mẹ càng duyên dáng cơ hồ trẻ ra
Nín đi con chớ khóc la...
Thơ - Nguyên tác : George Gershwin - Dubose Heyward
Phỏng dịch : Vũ Quốc
Thế đấy, đã vào hè, nhưng tôi chẳng thấy "cuộc sống vui tươi" tí nào ! Tôi ngồi ườn ra ghế đá công viên - "ngồi ườn ra" không phải là một từ dùng sai chỗ, chẳng qua để dễ nghe một chút. Tôi ngồi trên ghế băng dài chiếm chỗ gần hết chiếc ghế, hai chân xoạc ra, hai tay duỗi dài trên thành ghế . Tôi hình dung nếu có ai đi qua hẳn là sẽ trố mắt nhìn rồi lắc đầu bỏ đi. Tôi không phải là một cảnh quan xinh đẹp đáng nhìn ở đây. Quần áo bẩn thỉu. Ba ngày chưa tắm giặt và dưới sức nóng, tôi đoán cái mùi từ người tôi bốc ra càng khó ngữi. Nhưng bạn nên ngữi mới đánh giá đúng, chứ nhìn thì vẫn chưa đủ. Tôi cầm chai rượu táo pha cồn và mỗi khi há miệng tôi lại trút cái thứ thuốc độc đáng nguyền rủa ấy vào miệng, một ít tràn qua môi vương vãi trên áo jacket - càng bốc mùi nhiều hơn.
Trời nóng bức không nên mặc nhiều quần áo, thế nhưng người người đi lại trên đường vẫn cứ diện vào sơ mi và áo khoác ngoài trước cái nóng mùa hè. Cũng nên thấy rằng một số người không ăn mặc như thế, hãy tưởng tượng nếu họ trông thấy những thứ trên người của tôi đang mặc chắc cũng lộn mửa. Cho dù giặt kỹ vẫn còn thấy kinh khủng, cái quần không vừa với một người có số đo lưng như tôi, cà vạt thắt lòng thòng như dây treo cổ. Một chiếc sơ mi cũ kỹ, chắc đã được mặc từ đời ông đời cha cũng nên. Không cần nói cũng biết là không có cổ áo. Còn chiếc áo jacket thì khỏi nói, không chỉ không hợp với chiếc quần đang mặc, mà còn sờn rách nhiều chỗ, mặc cho ánh nắng xuyên qua . Đôi giày há mỏm, một chiếc mất cả đế. Còn vớ thì tốt nhất đừng nên nhắc đến. Bẩn thỉu như tổ đĩa, cả hai đều như thế.
Sau nhiều ngày tìm kiếm Adrian, tôi trông như thế này đây.
Tuần rồi, cha anh ấy đến gặp tôi, một người đàn ông mập mạp, mặt đỏ gay, để ria mép, có hàm răng đen xỉn. Trông ông ấy giống như một kẻ uống quá nhiều rượu, hút quá nhiều thuốc lá - tất nhiên người ông ta bốc lên chẳng khác gì cái mùi tìm thấy trong chiếc gạt tàn. Ông ta khập khiểng đi vào văn phòng mé chân phải còn có thêm chiếc gậy chống thật to.
"Tôi đã được nghe nói về anh", người đàn ông nói cộc lốc. Giọng nói hách dịch, thô lổ.
Tôi nhìn ông ta, chờ đợi ông nói tiếp. Ông ta có nói tên mình nhưng tôi không nhớ. Tôi chỉ gật đầu cho phải phép.
"Và tôi có thể giúp gì cho ông, thưa ông... ?"
"Ponting", ông ta nói gọn lỏn làm như là tôi đã biết rõ cái tên ấy rồi.
Bỗng nhiên tôi nhớ ra, "Có phải ông Ponting ở hãng sơn Ponting ?"
Người đàn ông gật đầu và cặp môi thâm xịt nở nụ cười thỏa mãn. Đáng thương thay, cặp môi ấy lại phô ra hàm răng đen kịt vì bám khói thuốc. "Chính xác như thế", người đàn ông nói.
Tôi đã có ít nhiều ấn tượng. Sơn của Ponting tất nhiên nổi tiếng cả nước sau vài chiến dịch quảng cáo rầm rộ trên ti vi, ở đó một con chó thật to đã được huấn luyện, cắn chiếc cọ sơn giữa hàm. Không biết sơn tốt cỡ nào nhưng càng quảng cáo nhiều thì có nhiều người biết đến. Quả thực con chó trông rất dễ thương. Người ta biết đến con chó nhiều hơn là thương hiệu hãng sơn.
"Thưa ông Ponting, có vấn đề gì ạ ?"
Gương mặt người đàn ông tối sầm, ngay lập tức ông ta trông giống như một gã chủ hiệu thực phẩm ngoài chợ đang nổi lôi đình vì một thằng bé lấy cắp quả táo bỏ chạy, hơn là một ông chủ hãng sơn đáng giá bạc triệu.
"Thằng Adrian là con trai tôi", người đàn ông nói.
Tôi gật đầu tỏ vẻ hiểu biết. Lại chuyện con trai, tôi lặng thinh, chuyện lớn rồi đây.
"Nó bỏ nhà đi rồi", người đàn ông nói tiếp.
"Sao ông không báo cảnh sát", tôi gợi ý.
"Tôi không thích", người đàn ông nói,"Anh thấy đấy, nó mười chín tuổi rồi còn gì. Đủ trưởng thành để tự quyết định mọi chuyện".
Tôi lại gật đầu, "Chắc là có nguyên nhân gì đó. Có lẽ là cãi nhau. Tôi cần biết rõ chi tiết hơn, thưa ông".
Đó là một việc khó, giống như tìm kim đáy bể, nhưng ngẫu nhiên tôi có tấm hình chàng trai. Arian là chàng trai trẻ ở đại học, học khá xuất sắc năm thứ hai, có triển vọng tốt. Nhưng sau đó thì sự việc chuyển sang một hướng khác, "Nó đi chơi với đám du thủ du thực ấy", tất nhiên điều ấy làm ông bố Ponting thất vọng. Có dấu hiệu anh chàng nghiện ma túy - Ồ, có 90% sinh viên chưa tốt nghiệp đều nếm qua thứ ấy bằng cách này hay cách khác, tôi chẳng hề ngạc nhiên vì điều ấy. Phải có "chuyện rắc rối" gì đó giữa những người trong gia đình như cha mẹ, anh chị em với nhau mà không tiện nói.
"Tình cờ", ông Ponting nói, "tôi biết được chuyện. Chúng tôi cãi nhau kịch liệt và nó nó bỏ nhà đi mất. Chúng tôi tưởng là nó về trường đại học, nhưng tìm ở đấy không thấy nó. Từ đó đến nay tôi không nghe gì về nó nữa - chuyện ấy xảy ra cách đây 6 tuần".
"Lần cãi vả sau cùng xảy ra khi nào, thưa ông ?"
"Ồ, chắc anh cũng hiểu. Chúng tôi, bên nào cũng nói những điều mà thực tâm không muốn nói như thế".
"Chính xác là nói gì ?", tôi hỏi.
Ponting đằng hắng. Hình như người đàn ông này đang cân nhắc chuyện gì đó. "Adrian nói nó sẽ sống cuộc sống của riêng nó. Tôi bảo nó không sống nổi nếu không có tiền của tôi, cả đời nó tôi đã tốn bao nhiêu tiền của. Nó không công ăn việc làm, chẳng có năng lực gì thật sự, không thích kinh doanh, không biết vận dụng. Cái gì cũng không hết, tất nhiên sẽ bị đào thải. Nó nói nó có thể làm mọi việc mà không cần đến tôi, không cần tiền của tôi. Thế là nó bỏ đi".
"Cậu ấy có tiền không ?", tôi hỏi, "thẻ tín dụng chẳng hạn, hoặc vay mượn từ bạn bè, họ hàng, hoặc của mẹ ?"
Ponting lắc đầu, "Con tôi, tôi biết. Nó chẳng có gì cả".
"Ông nghĩ cậu ấy có khả năng đi đâu ? Cậu ấy có thể ở nhờ với ai đó được chăng ?"
"Chúng tôi đã cố tìm mọi chỗ. Bạn bè nó. Không có kết quả. Tôi nghĩ nó đang lang thang ngoài đường, có lẽ ở đâu đấy trong thành phố London này".
"Thôi được, ông Ponting, tôi sẽ cố hết sức mình".
Sau đó chúng tôi bàn thêm về điều kiện, mà người đàn ông mau chóng chấp nhận, sau đó bàn chi tiết về cách thức liên lạc, hỏi tên và địa chỉ bạn bè Adrian.... và người đàn ông ký vào bản hợp đồng. Người đàn ông trao tôi một tấm hình của Adrian. Thoạt nhìn, tôi thấy ngay đó là một thanh niên có gương mặt tươi vui, mắt xám, tóc màu vàng nhạt, nhưng nụ cười - nếu nhìn kỹ chỉ là sự vui tươi giả tạo.
Ponting đứng dậy sắp sửa ra về thì tôi ngăn lại, "Còn một điểm cuối cùng thưa ông", tôi hỏi, "lần cãi nhau cuối cùng thực chất là cãi về chuyện gì ?"
Người đàn ông vờ vịt khoác tay cố né tránh câu hỏi, "Anh biết rồi đấy", người đàn ông đáp, "toàn là chuyện gia đình thôi".
"Tôi không biết gì cả", tôi nói, "nhưng tôi cần biết. Có thể đó là yếu tố quan trọng".
"Tôi không nhớ nữa", người đàn ông đáp, ngay cả khi biết rằng ông ta nói dối tôi cũng không nài ép thêm.
Vậy là tôi có mặt ở đây, một mình lang thang trên phố, giống như một kẻ không nhà để tìm cái kẻ bất cần đời kia.
Có nhiều việc cần phải suy tính, đi đâu, làm gì, quan trọng hơn là, cái gì không nên làm. Tránh mặt ai, tìm ở những chỗ an toàn được mệnh danh là "khu vực xanh", đơn giản chỉ có nghĩa là nơi không có những nguy cơ rình rập. Nơi tôi đang ngồi là một trong số những khu vực xanh ấy. Người người qua lại, một số người tỏ ra nghi ngờ, một số khác chỉ ngạc nhiên nhưng không có ác cảm. Tôi dò la một cách cẩn thận, vì không muốn để ai biết thực chất tôi đang tìm người. Tôi có tên, có mô tả nhân dạng, thời điểm xảy ra chuyện, dù vậy tôi vẫn không dùng đến tấm hình. Nhưng không ngon ăn chút nào. Luân Đôn là một chốn rộng lớn. Người tứ xứ tụ tập về đây và tôi chẳng biết bắt đầu từ đâu. Nhưng tôi có chút ít dấu vết. Có người thấy một gã thanh niên theo lời tôi mô tả ở khu vực công viên Finsbury - tôi phải giải thích rằng tôi nợ người ấy một ân huệ và muốn tìm gặp để đáp đền. Cứ hỏi bà "Trưởng lão Cái bang", người này khuyên tôi như thế. Bà ta luôn có mặt ở công viên. Vì thế tôi mới xuất hiện ở nơi này, lười nhác dưới ánh mặt trời và nghĩ xem có cách nào kiếm sống dễ dàng hơn không thì lúc ấy...
"Chúa ơi ! Matt ! Chuyện gì xảy ra với anh vậy ?"
Giọng nói của quá khứ, mặc dầu không phải là một quá khứ xa xôi cho lắm. Cái anh chàng Paul Massingham tóc hung, người tình cũ, tôi vẫn yêu, nếu buộc phải thừa nhận, trong tâm tưởng của tôi. Paul dáng dong dỏng cao, mảnh khảnh và đầy vẻ quyến rũ, còn tôi, trông chẳng ra hình dạng gì, chẳng khác nào một cái thùng rác trong ba tháng qua. Tệ thật ! Biết ăn nói làm sao ...
Và tôi lập tức nhìn thấy kẻ bám sau lưng Paul, hàng lô lốc những chiếc túi nhựa đựng thứ gì đó bên trong mà tôi không rõ - Bà "Trưởng lão Cái bang", chính là người tôi đang mong gặp mặt - vì vậy tôi không cần phải đi đâu xa nữa. Tôi giải thích với Paul một cách mơ hồ.
"Vì công việc", tôi lẩm bẩm nói qua kẽ răng, "Lâu lắm rồi anh chưa có cơ hội đụng vào ai cả", lần này lời nói lớn hơn cố tình cho người đàn bà kia nghe.
"Vì cái gì ?", Paul hỏi.
"Vì em", tôi nói lớn, "Em có thể ngồi đây một chút như bao nhiêu người khác... ", tôi nói nhưng mắt vẫn lơ đãng, "cho anh sờ một chút thôi", tôi nói nhỏ.
Rõ ràng Paul tỏ ra sững sốt, thậm chí là có thể nổi nóng vì thái độ sàm sở của tôi. Nhưng Paul ngẫm nghĩ gì đó rồi nói, "Anh phải tắm trước đã", sau đó bỏ đi một nước, không quay lại nhìn lần nào. Lẽ ra tôi phải nhìn kỹ để đoán xem phản ứng của Paul thế nào nhưng tôi còn có việc phải làm.
Người đàn bà được mệnh danh là "Trưởng lão cái bang" - không ai biết tên thật của bà - đang ngồi xổm trên ghế dài kế bên tôi, lưng dựa ra sau thành ghế để ánh mặt trời chiếu lên mặt mình. Quanh người đàn bà này lủng lẳng những túi nhựa, màu đen, loại túi đựng rác. Bên trong chứa những tài sản của bà và bà trông giữ cẩn thận như sợ người khác cướp mất, sẵn sàng nhe hàm răng đen kịt gầm gừ đe dọa nếu có ai đến gần. Bên trong những chiếc túi ấy là tất cả những gì bà có được, từ việc lượm lặt ở các thùng rác nếu